Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ ở trong kinh doanh

Điều này có nghĩa rằng, khi người nhận của một tin nhắn, bạn có thể dựa nhiều vào những biểu hiện trên khuôn mặt của người gửi vì biểu cảm đó là một thông báo tốt hơn về ý nghĩa đằng sau những tin nhắn với lời nói của mình.

Bạn đã bao giờ nghe ai nói, “Hành động của ông đã thể hiện rõ ràng như vậy tôi không thể để ý đến những gì anh nói nữa” Đã bao giờ bạn tự hỏi liệu có ai đã nói điều này về bạn? Những gì chúng ta làm là một phương tiện truyền thông, theo giải thích của những người mà chúng ta giao tiếp sẽ hiểu.

Bạn đã bao giờ dừng lại để nghĩ rằng ngay cả không hành động cũng là một cách để giao tiếp?

Ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến các thông tin được gửi một cách truyền thông độc lập và khác với các thông tin bằng lời nói; cụ thể là, các giao tiếp không lời – giao tiếp phi ngôn ngữ.

Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này sang người khác. Hầu hết chúng ta dành khoảng 75 phần trăm thời giờ của chúng ta truyền đặt kiến ​​thức, suy nghĩ và ý tưởng cho những người khác.

Tuy nhiên, hầu hết chúng ta không nhận ra rằng rất nhiều thông tin liên lạc của chúng ta là một hình thức không bằng lời nói, trái ngược với các hình thức nói và viết. giao tiếp phi ngôn ngữ bao gồm các biểu hiện khuôn mặt, ánh mắt, giọng nói, các tư thế cơ thể và chuyển động, và vị trí trong một nhóm cụ thể nào đó. Nó cũng có thể bao gồm cách chúng ta mặc quần áo hoặc ngay cả khi chúng ta im lặng.

Trong giao tiếp giữa người với người, thông điệp của chúng ta được gửi ở hai cấp độ cùng một lúc. Nếu các tín hiệu phi ngôn ngữ và thông điệp nói là phi lý, dòng chảy của truyền thông bị cản trở.

Đúng hay sai, người nhận của truyền thông có xu hướng dựa vào những tín hiệu không lời của người gửi mà anh ta nhận được. Chúng ta thật sự có thể sử dụng kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ trong kinh doanh để có thể đạt được những kết quả nhưng mong muốn hoặc tránh những tình huống khó xử.

Phân loại và tính năng

G. W. Porter chia giao tiếp phi ngôn ngữ thành bốn loại chính:

– Vật lý: Đây là loại cá nhân của truyền thông. Nó bao gồm các biểu hiện khuôn mặt, giọng nói, cảm giác, xúc giác, khứu giác, và chuyển động cơ thể.

– Thẩm mỹ: Đây là loại giao tiếp diễn ra thông qua các biểu thức sáng tạo: biểu diễn nhạc cụ, múa, hội họa và điêu khắc.

– Dấu hiệu: Đây là loại khá máy móc trong truyền thông, trong đó bao gồm việc sử dụng cờ hiệu, các 21 phát đại bác, sừng, và còi báo động.

– Tượng trưng: Đây là loại hình giao tiếp mà làm cho sử dụng các biểu tượng tôn giáo, tình trạng, hay các biểu tượng trong kiến trúc.

Kiến thức và kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ trong kinh doanh là rất quan trọng khi một người nào đó đóng vai trò là nhà lãnh đạo của tổ chức “nhóm”, ít nhất là hai lý do:

– Để hoạt động có hiệu quả, với vai trò một nhà lãnh đạo nhóm các nhà quản lý phải tương tác với các thành viên một cách có hiệu quả. Tín hiệu không lời, khi được truyền đạt một cách chính xác, cung cấp cho anh ta một phương cách để làm điều này.

– Các thành viên trong nhóm có thái độ và cảm xúc thông qua giao tiếp phi ngôn ngữ. Một số nhu cầu cá nhân như sự đồng thuận, tăng trưởng, thành tựu và công nhận có thể tạo nên nhiều hiệu quả. Mức độ mà những nhu cầu này được đáp ứng là có liên quan chặt chẽ với cách các trưởng nhóm và thành viên trong nhóm giao tiếp không lời với nhau.

Nếu các thành viên trong nhóm cho thấy một nhận thức đúng với những tín hiệu phi ngôn ngữ, tổ chức này sẽ có một cơ hội tốt hơn để thành công, vì nó sẽ là một đơn vị mở, trung thực, và đối đầu.

Argyle và các cộng sự đã nghiên cứu kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ trong kinh doanh cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và các thành viên trong nhóm của họ. Sau đây tóm tắt những phát hiện của họ:

Tính năng tĩnh

– Khoảng cách: Khoảng cách đứng từ người này đến đối phương truyền tải một thông điệp không lời. Trong một số nền văn hóa đó là một dấu hiệu của sự hấp dẫn, trong khi ở những người khác nó có thể phản ánh tình trạng hay cường độ của sự trao đổi.

– Sự định hướng: Mọi người có thể thể hiện mình theo những cách khác nhau: mặt đối mặt, từ bên này sang bên kia hoặc thậm chí quay lưng lại với nhau. Ví dụ, hợp tác mọi người có thể ngồi ngang hàng, trong khi đối thủ cạnh tranh thường xuyên phải đối mặt với nhau.

– Tư thế: Rõ ràng là người ta có thể nằm, ngồi hoặc đứng. Đây không phải là các yếu tố của tư thế truyền tải thông điệp. Chúng ta ủ rũ hay luôn trong tư thế thẳng? Chân của chúng ta gác lên nhau hoặc cánh tay của chúng ta khanh lại? những tư thế như vậy đều truyền đạt một mức độ hình thức và mức độ thư giãn trong việc trao đổi thông tin liên lạc với nhau.

– Liên hệ vật lý: Bắt tay, chạm, nắm, ôm, đẩy, hoặc vỗ nhẹ vào lưng tất cả đều là những thông điệp. Chúng phản ánh một yếu tố của sự thân mật hay cảm giác (hoặc thiếu) thu hút.

Tính năng động

– Biểu thức trên khuôn mặt: Một nụ cười, cau mày, nhướn mày, ngáp, và nhạo báng, tất cả các thông tin truyền đạt. nét mặt thay đổi liên tục trong quá trình tương tác và được theo dõi liên tục bởi người nhận. Có bằng chứng cho thấy ý nghĩa của các biểu hiện có thể tương tự như các nền văn hóa.

– Cử chỉ: Một trong những dấu hiệu thường gặp nhất, nhưng lại khó hiểu nhất, là cử chỉ tay. Hầu hết mọi người sử dụng các động tác tay thường xuyên khi nói chuyện. Trong khi một số động tác (ví dụ, một nắm tay) có ý nghĩa phổ quát, hầu hết những người khác đều tự tạo ra và mang phong cách riêng.

– Sự nhìn: Một tính năng chính của truyền thông xã hội là giao tiếp bằng mắt. Nó có thể truyền tải cảm xúc, báo hiệu khi nói chuyện hay kết thúc, hoặc ác cảm. Tần số liên lạc có thể thể hiện sự quan tâm hoặc chán chường.

Tortoriello, Blott, và DeWine đã xác định giao tiếp phi ngôn ngữ như sau: “…việc trao đổi các thông điệp chủ yếu thông qua các phương tiện phi ngôn ngữ, bao gồm: Kinesics (ngôn ngữ cơ thể), nét mặt và ánh mắt, truyền xúc giác, không gian và lãnh thổ, môi trường, sử dụng sự im lặng và thời gian. ”

Nét mặt thường biểu hiện sự giao tiếp cảm xúc. Các biểu hiện đi kèm với thái độ của người giao tiếp. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các khu vực nhất định trên khuôn mặt biểu lộ trạng thái cảm xúc của chúng ta tốt hơn so với những vùn còn lại. Ví dụ, đôi mắt có xu hướng bộc lộ niềm vui hay nỗi buồn, và thậm chí còn ngạc nhiên.

Các cơ mặt dưới cũng có thể tiết lộ hạnh phúc hay bất ngờ; những nụ cười, ví dụ, có thể giao tiếp thân thiện và hợp tác. Lông mày và trán cũng có thể tiết lộ sự tức giận. các chuyên gia tin tín hiệu bằng lời nói cung cấp 7 phần trăm về ý nghĩa của thông điệp; âm thanh: 38 phần trăm; và biểu cảm gương mặt là 55 phần trăm.

Điều này có nghĩa rằng, khi người nhận của một tin nhắn, bạn có thể dựa nhiều vào những biểu hiện trên khuôn mặt của người gửi vì biểu cảm đó là một thông báo tốt hơn về ý nghĩa đằng sau những tin nhắn với lời nói của mình.

Giao tiếp bằng mắt là một hình thức trực tiếp và mạnh mẽ của giao tiếp không lời. Các nhà lãnh đạo trong tổ chức nói chung vẫn duy trì giao tiếp bằng mắt dài hơn cấp dưới. Những cái nhìn trực tiếp của người gửi tin nhắn truyền đạt thẳng thắn và cởi mở. Nó gợi lên một cảm giác tin tưởng. liếc xuống thường được kết hợp với sự khiêm tốn. Mắt cuộn trở lên có liên quan với sự mệt mỏi.

Kỹ năng giao tiếp phi ngôn ngữ trong kinh doanh cung cấp thông tin cho các nhà quản lý và các thành viên trong một tổ chức cách thức giao tiếp mang lại hiệu quả tốt hơn.

Related posts:

Nội Dung Khác

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *